Quản lý nội dung HTML

DA NANG WORTH LIVING, WORTH INVESTING

Quản lý nội dung HTML

Quản lý nội dung HTML

Tin tức

Khung tìm kiếm
  Tìm kiếm nâng cao >>

Breadcrumb

Tin tức

Your Website Title
Cần có phương án danh sách “mở” cho các ngành nghề ưu đãi đầu tư
Người đăng tin: Hòa Duy Võ Ngày đăng tin: 10/07/2025 Lượt xem: 9

Để thu hút hiệu quả hơn dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng gay gắt, việc xây dựng danh mục các ngành, nghề ưu đãi đầu tư cần có tính linh hoạt, thích ứng cao. Một phương án danh sách “mở” – cho phép cập nhật, điều chỉnh kịp thời theo thực tiễn phát triển – sẽ là bước đi cần thiết nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn, đồng thời phù hợp với định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ưu tiên phát triển bền vững của Việt Nam.


Thực trạng ngành nghề ưu đãi đầu tư tại Việt Nam

Ngành nghề đầu tư được xem là yếu tố hàng đầu của pháp luật đầu tư trong việc thu hút đầu tư nước ngoài bởi vì nó quyết định trực tiếp phạm vi, định hướng và mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư.

Thứ nhất, khả năng tiếp cận thị trường và lợi nhuận là yếu tố hàng đầu mà nhà đầu tư (NĐT) xem xét khi lựa chọn ngành nghề đầu tư. Những lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng mạnh, nhu cầu thị trường cao hoặc mang lại lợi thế cạnh tranh (như chi phí lao động thấp, vị trí địa lý thuận lợi, nguồn nguyên liệu dồi dào...) thường thu hút được nhiều sự quan tâm hơn (1). Việc đầu tư vào ngành nghề phù hợp giúp NĐT nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và tối ưu hóa lợi nhuận, từ đó tạo niềm tin và động lực cho việc mở rộng quy mô đầu tư trong tương lai.

Thứ hai, mức độ ưu đãi và hỗ trợ dành cho ngành nghề đầu tư là một yếu tố quyết định. Khi một ngành nghề được Chính phủ hoặc địa phương ưu tiên, NĐT thường được hưởng nhiều ưu đãi như miễn giảm thuế, hỗ trợ về đất đai, tiếp cận tín dụng hoặc hỗ trợ hành chính. Những ưu đãi này giúp giảm chi phí đầu tư ban đầu và rủi ro tài chính, làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và góp phần vào việc ra quyết định nhanh chóng của doanh nghiệp nước ngoài (2).

Thứ ba, NĐT cũng cân nhắc mức độ ổn định và rủi ro pháp lý của từng ngành nghề. Nếu ngành nghề thuộc danh mục hạn chế, có điều kiện hoặc thường xuyên thay đổi chính sách, họ sẽ lo ngại về tính bất định của môi trường đầu tư (3). Cụ thể, những rào cản như thủ tục phức tạp, yêu cầu giấy phép con, hay sự can thiệp hành chính sâu có thể khiến NĐT đánh giá thấp mức độ an toàn và hiệu quả của dự án, dẫn đến việc trì hoãn hoặc rút lui khỏi kế hoạch đầu tư.

Thứ tư, khả năng liên kết và hợp tác trong ngành nghề đầu tư cũng là yếu tố được quan tâm. Nhiều NĐT nước ngoài có xu hướng chọn các ngành có thể dễ dàng kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu hoặc hợp tác với doanh nghiệp nội địa (4). Điều này giúp họ giảm chi phí logistics, tận dụng mạng lưới sản xuất sẵn có và thích nghi nhanh hơn với thị trường địa phương. Ngành nghề càng có khả năng lan tỏa và tạo giá trị gia tăng thì càng thu hút sự tham gia của các NĐT chiến lược.

Luật Đầu tư 2020 (LĐT) quy định rõ ngành nghề nào bị cấm đầu tư kinh doanh và  ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Riêng đối với NĐT nước ngoài, Điều 9. LĐT đề cập đến ngành, nghề và điều kiện tiếp cận thị trường đối với NĐT nước ngoài. Theo đó NĐT nước ngoài được áp dụng điều kiện tiếp cận thị trường như quy định đối với NĐT trong nước, trừ 02 trường hợp: Ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường; và Ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện.

Đối với nhóm các ngành nghề NĐT nước ngoài chưa được tiếp cận thị trường, tức là bị cấm hoàn toàn, căn cứ Nghị định số 31/2021/NĐ-CP, có 25 ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường có điều kiện đối với NĐT nước ngoài. Những ngành này thường liên quan đến các lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm như quốc phòng, an ninh, trật tự xã hội, độc quyền nhà nước hoặc ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa dân tộc. Ví dụ tiêu biểu bao gồm sản xuất vũ khí, quân trang, điều tra, báo chí, bưu chính công ích hay khai thác tài nguyên thiên nhiên đặc biệt. Mục tiêu của việc hạn chế này là nhằm bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia và giá trị cốt lõi xã hội.

Đối với nhóm các ngành nghề NĐT nước ngoài được tiếp cận có điều kiện, tức là chỉ được đầu tư khi đáp ứng các yêu cầu nhất định do pháp luật quy định. Căn cứ, Nghị định số 31/2021/NĐ-CP có 59 ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện đối với NĐT nước ngoài. Nhóm này bao gồm một số lĩnh vực như viễn thông, giáo dục, kế toán, kiểm toán, v.v. Việc áp dụng cơ chế có điều kiện nhằm bảo vệ ngành nghề nhạy cảm, kiểm soát mức độ ảnh hưởng của NĐT nước ngoài và đảm bảo sự phát triển ổn định, cân bằng trong các lĩnh vực kinh tế – xã hội trọng yếu. Các điều kiện tiếp cận thị trường đối với NĐT nước ngoài quy định tại Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với NĐT nước ngoài bao gồm: Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của NĐT nước ngoài trong tổ chức kinh tế; Hình thức đầu tư; Phạm vi hoạt động đầu tư; Năng lực của NĐT; Đối tác tham gia thực hiện hoạt động đầu tư; Điều kiện khác theo quy định tại luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nghị định của Chính phủ và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Ưu điểm: Phân loại rõ ngành nghề đầu tư, khuyến khích phát triển các ngành CNC và đổi mới sáng tạo, có cơ chế đặc biệt để thu hút các ngành nghề mới

Thứ nhất, điểm mạnh đáng chú ý trong hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài ở Việt Nam là việc quy định rõ ràng, cụ thể các ngành nghề đầu tư, phân loại thành các nhóm như ngành nghề được khuyến khích đầu tư, ngành nghề đầu tư có điều kiện, và ngành nghề cấm đầu tư. Sự phân loại này giúp tạo ra sự minh bạch và dễ dàng cho NĐT trong việc lựa chọn lĩnh vực phù hợp, cũng như đảm bảo an toàn cho quốc gia và người tiêu dùng. Việc phân loại ngành nghề rõ ràng giúp NĐT dễ dàng nhận diện cơ hội và rủi ro, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư có chọn lọc, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế quốc gia. Đây cũng là công cụ pháp lý quan trọng để quản lý và điều tiết dòng vốn đầu tư nước ngoài theo hướng bền vững và có chiến lược.

Thứ hai, pháp luật về đầu tư nước ngoài hiện nay còn tạo ra môi trường thuận lợi để khuyến khích các ngành đổi mới sáng tạo và công nghệ cao (CNC), từ đó góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việc tập trung vào các lĩnh vực CNC không chỉ thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp hiện đại mà còn giúp nâng cao giá trị gia tăng trong sản xuất và dịch vụ. Ưu điểm này giúp thu hút các NĐT có trình độ công nghệ tiên tiến, tạo điều kiện cho việc chuyển giao công nghệ hiện đại và thúc đẩy nghiên cứu phát triển trong nước. Khi môi trường pháp lý khuyến khích sáng tạo, các doanh nghiệp có động lực tăng cường đầu tư vào nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới và cải tiến quy trình sản xuất, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Lợi ích của việc khuyến khích đổi mới sáng tạo và CNC còn thể hiện rõ trong việc góp phần phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật và thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các tổ chức giáo dục. Điều này tạo nên hệ sinh thái đổi mới sáng tạo vững mạnh, là nền tảng quan trọng để phát triển kinh tế số và công nghiệp 4.0.

Thứ ba, một điểm mới và đáng chú ý trong pháp luật thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là việc bắt đầu áp dụng Cơ chế Sandbox để thu hút các NĐT trong các ngành nghề mới. Cơ chế này cho phép các NĐT được thử nghiệm, triển khai các dự án, sản phẩm hoặc dịch vụ mới trong một phạm vi giới hạn và có kiểm soát trước khi chính thức mở rộng quy mô. TP. Hồ Chí Minh là địa phương tiên phong khi Nghị quyết số 20/2024/NQ-HĐND có hiệu lực từ ngày 24/11/2024, cho phép thử nghiệm các giải pháp công nghệ mới trong khu vực Khu CNC và Khu CNTT tập trung. Luật Thủ đô (sửa đổi), được Quốc hội thông qua với sự đồng thuận cao vào ngày 28/6/2024, đã tạo điều kiện cho Hà Nội triển khai các thử nghiệm về công nghệ trong những lĩnh vực mới. Cùng với đó, Đà Nẵng cũng chính thức bắt đầu tham gia thử nghiệm công nghệ mới sau khi Nghị quyết số 55/2024/NQ-HĐND được thông qua vào ngày 13/12/2024, cho phép thành phố thí điểm áp dụng công nghệ tiên tiến từ đầu năm 2025. Ưu điểm lớn nhất của cơ chế này là tạo điều kiện linh hoạt cho NĐT trong việc đổi mới sáng tạo và áp dụng các công nghệ, mô hình kinh doanh tiên tiến mà chưa bị ràng buộc bởi các quy định pháp luật chưa hoàn thiện hoặc còn nhiều bất cập. Điều này giúp giảm thiểu rủi ro pháp lý, tài chính trong giai đoạn đầu thử nghiệm, đồng thời tạo cơ hội để hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ phù hợp với thực tiễn và quy định của Việt Nam. Lợi ích của cơ chế sandbox còn nằm ở việc thu hút các NĐT nước ngoài đặc biệt là trong các lĩnh vực CNC, Fintech, thương mại điện tử, và các ngành nghề mới nổi có tốc độ phát triển nhanh. Qua đó, không chỉ thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế mới mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam. Cơ chế này cũng phản ánh sự linh hoạt và cam kết của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng, sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu, qua đó tăng cường thu hút dòng vốn đầu tư chất lượng cao và bền vững.

Hạn chế: Danh sách ngành nghề ưu đãi đầu tư chưa mang tính “thời sự”, hành lang pháp lý cho các ngành nghề mới còn thiếu

Một hạn chế đáng chú ý trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam hiện nay là danh mục ngành nghề được ưu đãi chưa mang tính “thời sự”, nhiều ngành mới vẫn chưa được cập nhật trong Danh mục CNC được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm CNC được khuyến khích phát triển được ban hành tại Quyết định số 38/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Danh mục). Một số ví dụ điển hình như: Các ngành ứng dụng chuyên sâu của trí tuệ nhân tạo (AI) (thị giác máy tính, xử lý ngôn ngữ tự nhiên, học sâu (deep learning), mô hình ngôn ngữ lớn…); Công nghệ sản xuất thiết bị bán dẫn trung gian (front-end fabrication tools); Fintech;… chưa có trong Danh mục. Điều này khiến nhiều NĐT không nhận được các ưu đãi đáng có và dẫn đến chuyển đổi kế hoạch đầu tư sang các thị trường khác.

So sánh với Ấn Độ - một quốc gia cũng đang phát triển và cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam trong thu hút FDI, có thể thấy cách tiếp cận pháp lý của họ mang tính linh hoạt và thực tế hơn. Ấn Độ không ban hành một đạo luật chuyên biệt về đầu tư nước ngoài, mà thay vào đó, Chính phủ công bố chính sách đầu tư nước ngoài hàng năm, trong đó quy định cụ thể về lĩnh vực được đầu tư, mức độ mở cửa, tỷ lệ sở hữu và điều kiện kèm theo cho từng ngành nghề, lĩnh vực (5). Việc cập nhật hàng năm cho phép chính sách đầu tư của Ấn Độ tiệm cận nhanh với thực tế thị trường, nhu cầu NĐT và xu thế toàn cầu, đồng thời giúp giảm độ trễ trong phản ứng chính sách - điều mà pháp luật Việt Nam hiện chưa làm được với tần suất và tốc độ tương đương.

Một trong những rào cản pháp lý lớn ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành CNC tại Việt Nam là hành lang pháp lý về sở hữu trí tuệ và bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu công nghiệp còn thiếu rõ ràng, chưa theo kịp tốc độ phát triển công nghệ. Đối với các lĩnh vực có giá trị tri thức cao như thiết kế vi mạch, đào tạo mô hình AI, phần mềm lõi, công nghệ sinh học... tài sản quan trọng nhất của doanh nghiệp không nằm ở máy móc mà ở dữ liệu, thuật toán, bí quyết kỹ thuật. Tuy nhiên, khung pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn chưa có quy định đủ cụ thể và chặt chẽ để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm vô hình này. Ngoài ra, cơ chế xử lý các hành vi rò rỉ công nghệ, đánh cắp dữ liệu hoặc trộm cắp sáng chế dưới hình thức nhân bản không phép còn yếu, cả về mặt chế tài lẫn năng lực thực thi.

Thêm vào đó, trong khi các quốc gia phát triển đã ban hành luật chuyên biệt về bảo vệ dữ liệu cá nhân và dữ liệu công nghiệp (như GDPR của EU hay Đạo luật bảo vệ dữ liệu của Nhật Bản, Hàn Quốc), thì Việt Nam vẫn đang trong quá trình dự thảo Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, chưa có hành lang pháp lý đồng bộ cho dữ liệu nhạy cảm trong nghiên cứu và sản xuất CNC. Điều này khiến nhiều tập đoàn đa quốc gia tỏ ra e ngại khi đầu tư vào các công đoạn cốt lõi như thiết kế chip, huấn luyện AI, hoặc phát triển sản phẩm công nghệ độc quyền tại Việt Nam, do lo ngại nguy cơ rò rỉ, mất kiểm soát hoặc không được bảo vệ hợp pháp trước hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Do đó, để thu hút được những dòng vốn chất lượng cao và gắn với chuyển giao công nghệ thực chất, Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ và dữ liệu, theo hướng rõ ràng, bảo vệ mạnh mẽ, và tiệm cận chuẩn quốc tế.

Đặc biệt, đối với lĩnh vực AI, hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam vẫn chưa có cách tiếp cận đầy đủ và rõ ràng, nhất là trong việc xác định tư cách pháp lý của AI khi tham gia vào các quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi pháp luật. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015, chủ thể trong các quan hệ dân sự phải là cá nhân hoặc tổ chức có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Trong khi đó, AI dù có khả năng xử lý thông tin, học hỏi và đưa ra quyết định độc lập, vẫn chỉ được xem là công cụ hỗ trợ và chưa được công nhận là chủ thể pháp lý. Điều này khiến cho việc xác lập quyền và nghĩa vụ của AI trong các giao dịch dân sự hay quan hệ sở hữu trí tuệ trở nên bất khả thi. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung 2022 hiện cũng chưa đề cập đến vai trò hay tư cách của AI trong quá trình tạo ra các tài sản trí tuệ. Theo Điều 12a và Điều 13 của Luật này, tác giả phải là con người và chỉ có tổ chức và cá nhân mới được công nhận là chủ thể quyền tác giả, và các điều kiện bảo hộ đều gắn với hoạt động sáng tạo của con người. Do đó, những tác phẩm hoặc sáng chế do AI tự động tạo ra, không có sự can thiệp trực tiếp của con người trong quá trình sáng tạo, sẽ không đủ cơ sở pháp lý để xác lập quyền sở hữu trí tuệ theo quy định hiện hành.

Hội thảo Trí tuệ nhân tạo - Động lực mới phát triển Đà Nẵng năm 2025 với mục đích kêu gọi đầu tư ngành trí tuệ nhân tạo tại thành phố

Bên cạnh 03 ngành đã đề cập ở trên, tại thành phố Đà Nẵng – địa phương đang nỗ lực kêu gọi đầu tư ngành vi mạch bán dẫn, còn có ví dụ thực tế khác là một công ty thuộc lĩnh vực lắp ráp, đóng gói và kiểm thử vi mạch (OSAT – Outsourced Semiconductor Assembly and Test) đã đến nghiên cứu cơ hội đầu tư tại Đà Nẵng. Tuy nhiên, ngành này chưa được đưa vào Danh mục CNC được ưu tiên đầu tư phát triển theo Quyết định số 38/2020/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Dù đây là một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị ngành bán dẫn toàn cầu, đóng vai trò kết nối giữa thiết kế chip và ứng dụng thực tế, nhưng pháp luật hiện hành lại chưa cập nhật kịp thời, khiến các NĐT trong lĩnh vực này không được hưởng chính sách ưu đãi dành cho CNC.

Hội thảo Xúc tiến đầu tư vi mạch bán dẫn Đà Nẵng năm 2024

Giải pháp: Cần mở rộng ngành nghề ưu đãi đầu tư, có phương án danh sách “mở” và bổ sung hàng lanh pháp lý cho các ngành nghề mới

Trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ và tái định hình toàn bộ cấu trúc sản xuất, kinh doanh toàn cầu, việc mở rộng ngành nghề ưu đãi đầu tư trở thành một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trong khi nhiều quốc gia đã nhanh chóng điều chỉnh chính sách để đón đầu các xu hướng công nghệ mới, thì hệ thống pháp luật về đầu tư của Việt Nam vẫn còn tương đối chậm trong việc cập nhật danh mục ngành nghề ưu đãi, khiến chúng ta đứng trước nguy cơ bỏ lỡ những dòng vốn chất lượng cao, đặc biệt là các NĐT tiên phong trong các lĩnh vực công nghệ đột phá.

Vì vậy, Nhà nước cần sớm hoàn thiện cơ chế pháp lý để thiết lập một danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư có khả năng “mở”, cập nhật thường xuyên và linh hoạt. Cần có hội đồng tư vấn chuyên ngành gồm đại diện các bộ, viện nghiên cứu, chuyên gia công nghệ và doanh nghiệp để định kỳ rà soát, đề xuất ngành nghề ưu tiên theo xu thế phát triển toàn cầu và nhu cầu thực tiễn trong nước. Đây không chỉ là yêu cầu cấp bách về mặt pháp lý, mà còn là chiến lược dài hạn để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và trở thành điểm đến hấp dẫn của các dòng vốn đầu tư chiến lược, là bước đi quan trọng để Việt Nam không bị bỏ lại phía sau trong cuộc cạnh tranh thu hút FDI toàn cầu ngày càng khốc liệt.

Ngoài ra, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý cho các ngành nghề mới. Trong bối cảnh khoa học – công nghệ phát triển nhanh chóng và xu hướng chuyển dịch đầu tư toàn cầu ngày càng rõ nét, việc bổ sung hành lang pháp lý cho các ngành nghề là giải pháp cấp thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư. Khi pháp luật hiện hành chưa kịp cập nhật hoặc thiếu quy định rõ ràng đối với các lĩnh vực này, nhà đầu tư sẽ gặp rủi ro pháp lý và do dự trong việc triển khai dự án. Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách cho các ngành nghề mới không chỉ giúp định hướng đầu tư vào những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, mà còn thể hiện cam kết chủ động, linh hoạt của Việt Nam trong việc thích ứng với xu thế phát triển toàn cầu.

Duy Hòa


(1) Nguyễn Thị Mai Hương, Kiều Thị Mai (2021), Các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực nông nghiệp ở Hà Nội, Tạp chí Khoa học và Công nghệ-Đại học Đà Nẵng, Số 10.

(2) Lê Minh Dương (2018), Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài theo pháp luật đầu tư Việt Nam từ thực tiễn các khu kinh tế ven biển, Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học Xã hội.

(3) Mammadova Agayev (2025), Analysis of risks in investment projects, MA Dissertation, Azerbaijan University of Architecture and Construction

(4) Hadion Wijoyo, Yoyok Cahyono (2020), Analysis of most influential factors to attract foreign direct investment, Journal of Critical Reviews No.7.

(5) Tạp chí điện tử Pháp lý (2024), Không có Luật thu hút FDI chuyên biệt, Ấn Độ đã làm gì để trở thành nền kinh tế thứ 5 thế giới, https://phaply.net.vn/khong-co-luat-thu-hut-fdi-chuyen-biet-an-do-da-lam-gi-de-tro-thanh-nen-kinh-te-thu-5-the-gioi-a255873.html, ngày truy cập 20/5/2025.


Chuyên mục, tin tức liên quan:

Quản lý nội dung HTML

住所

29th Floor, Danang Administration Center,

24 Tran Phu St., Danang City

Quản lý nội dung HTML

連絡先

84-236-3886243/3810054

ipa@danang.gov.vn

Liên kết web

Insert title here

Quản lý nội dung HTML

Copyright of Danang Investment Promotion Agency

ダナン情報通信所により発行された2017年2月20日付許可No.124/GP-STTT。